Bài thuốc Bát Vị

NCS.TS. Lê Nguyễn Quốc Đức
Th 4 02/08/2023

Bài thuốc hay “Lục vị” và “Bát vị” – Hai bài thuốc chính điều trị thủy hỏa tiên thiên.

Học thuyết thuỷ hoả hay là học thuyết tâm thận do Hải Thượng Lãn Ông xây dựng nên. Trên cơ sở đó Ông đưa ra phương pháp trị liệu “Giáng tâm hoả, ích thận thuỷ” làm phương châm điều hoà 2 quá trình “thuỷ hoả”, lập lại cân bằng âm dương, làm tiêu tán bệnh tật. Với phương châm đó Hải Thượng Lãn Ông đã sử dụng thành công 2 bài thuốc cổ phương: Lục vị và Bát vị để bổ thuỷ, bổ hoả; đồng thời ông là người đã sử dụng pháp biến phương tinh thông từ bài thuốc này để điều trị hơn 50 chứng và bệnh.

  • Bài Bát vị:
  • Tên gọi khác: Quế phụ địa hoàng thang, bát vị, bát vị địa hoàng, bát vị quế phụ, bát vị địa hoàng hoàn

Thục địa 24g

Hoài sơn 12g

Phục linh 9g

Sơn thù 12g

Mẫu đơn bì 9g

Trạch tả 9g

Nhục quế 3g

Phụ tử 3g

 

  • Thục địa bổ thận, điều tinh, sinh huyết, là thuốc thánh để bổ âm là đầu vị; Sơn thù vị chua vào can thận, chủ đóng kín mà tính chua liễm hợp với nó, Sơn thù làm ấm can, đuổi phong, cố tinh ích khí. Hai vị thục địa và sơn thù là chất nhu nhuận.
  • Phục linh, Sơn dược để kiện tỳ vị, khiến cho từ chỗ đó mà sinh ra hóa nguyên, và làm cho hậu thiên phát triển mãi mãi ko cùng. Phục linh có thể vào tỳ, thấm được thấp nhiệt ở trong tỳ mà thông với thận, giao với tâm, tác dụng của nó đều chủ về thông lợi đỡ cho vị Sơn dược có tính trệ. Vả lại, sắc trắng thuộc kim, có thể bồi dưỡng bộ phận phế lại có ý nghĩa “con hư thì bổ mẹ”. Sơn dược vị ngọt vào tỳ mà bổ tỳ yên được kẻ thù của thủy cho nên dùng làm thần và lại thanh hư nhiệt ở phế lại hay cố tinh bổ thận.
  • Trạch tả lợi tiểu tiện, để thanh tướng hỏa, thông cái trệ của Thục địa để dẫn các thuốc mau đến thận, có bổ có tả mà không thích công phạt. Trạch tả để tả hỏa tà, nước đọng của long lôi lại cùng phục linh thấm nhạt, chuyển vận các vị thuốc đi xuống. Trạch tả, Phục linh tính thấm tả chính là để cho mau khiến cho chóng thông xuống dưới, thận âm không giữ được bốc cháy lên trên. Dùng Trạch tả tính mạnh để đưa phần âm trong dương xuống.
  • Phụ tử là thuốc của cả tam tiêu, cay nóng thuần dương lưu thông các kinh mạch, tính chạy mà không giữ lại, Nhục quế là thuốc kinh thiếu âm, tuyên thông huyết mạch, tính cũng bốc, hai vị ấy đều khó khống chế, cần được 6 vị kia là thứ thuần âm, vị hậu, nhuận hạ để khơi thông đưa đường rồi mới dẫn xuống thận, tự nhiên sẽ không ngại chấn động lên nữa.
  • Ý nghĩa của bài Bát vị: Phương này chữa chứng tướng hỏa không đủ, hư gầy khí kém, cho nên Vương Băng cho rằng “Bổ ích nguồn chân hỏa để làm tiêu tan mây mù trong phần âm”, mạch xích nhược thì dùng rất thích hợp.
  • Công dụng: Trị các chứng : Mệnh môn hỏa suy, tướng hỏa không đủ không sinh được thổ, đến nỗi tỳ vị hư hàn, hư yếu, khí kém, không thiết ăn uống, đại tiện không rắn, rốn bụng quặn đau, đêm đi đái nhiều, hoặc mạch hư nhược, thổ yếu thủy thắng, thiếu hỏa hao kém; hoặc mạch rỗng ấn vào có lực, hoặc hỏa hư đờm thịnh, cùng với các chứng âm thịnh cách dương, trong thực hàn mà ngoài giả nhiệt, nên nói rằng bổ ích cho nguồn chân hỏa để tiêu tan mây mù trong phần âm là thế.

-------------

Nếu các bạn cần tư vấn hoặc gia giảm liều lượng, vui lòng liên hệ: 

Trung tâm bào chế Bảo Đại Đường 

Chuyên bốc thuốc theo đơn, bào chế dạng thuốc sắc, viên hoàn cứng, hoàn mềm, cao đặc,..

148 ngõ 91 Trần Quang Diệu, Đống Đa, Hà Nội

Hotline ĐT/Zalo: 084.22.11.348 - 084.23.11.348

Fanpage: Đông y Bảo Đại Đường

-------------

Bài đọc liên quan:

Bài thuốc Lục vị

Các bài thuốc Đông y chữa bệnh hiệu quả

 

Viết bình luận của bạn
Bình luận (4)
binh-luan

Bảo Đại Đường admin

1. Đúng là Phụ tử (附子) “nóng dữ lắm”
• Tính vị: Cay, ngọt, đại nhiệt, có độc.
• Quy kinh: Tâm – Thận – Tỳ.
* Công năng chính:
• Hồi dương cứu nghịch (cứu người sắp suy kiệt).
• Bổ hỏa, trợ dương (trị dương hư, mệnh môn hỏa suy).
• Tán hàn, chỉ thống (giảm đau do hàn tý: đau khớp, lạnh buốt).
--> Vì vậy, khi nói “nóng dữ lắm” thì đúng, phụ tử là một trong những thuốc đại nhiệt mạnh nhất trong Đông y, phải chế biến cẩn thận (khử độc bằng bào chế: chế phụ tử, hắc phụ tử, bạch phụ tử).
2. Ngũ vị kỵ của Phụ tử: Bán hạ, Qua lâu, Bối mẫu, Bạch cập, Bạch liên.
• Lý do: Các vị này tính hàn, tả, đối nghịch với tính đại nhiệt, hữu độc của Phụ tử → nếu dùng chung có thể phản ứng bất lợi hoặc giảm tác dụng.
• Ngoài ra: Tránh phối hợp với ngư tinh thảo (tương phản công năng).

binh-luan

Bảo Đại Đường admin

Chào bạn, nguyên văn của bài do Trương Trọng Cảnh viết:
《金匮要略·第五卷·水气病脉证并治》曰:
肾气丸方:
乾地黄八两,山茱萸四两,山药四两,泽泻三两,茯苓三两,牡丹皮三两,桂枝一两,附子一枚(炮,去皮,破八片)。
上八味,为末,炼蜜和丸,如梧桐子大。饮食随宜,服一丸,日二,稍加至三丸。
Trong bản gốc của Kim Quỹ yếu lược chỉ ghi liều lượng bằng lạng (两), tức “8 lạng, 4 lạng, 3 lạng, 1 lạng…”.
• Đây chính là “đại thang” (liều chuẩn của Trọng Cảnh).
• Về sau các thầy thuốc (như Hải Thượng Lãn Ông) mới gia giảm thêm bản “tiểu thang”, tức giảm lượng thuốc xuống còn một nửa/quy đổi nhẹ, phù hợp bệnh nhẹ.
Vì vậy áp dụng với thực tế hiện nay, bạn có thể tham khảo liều lượng như sau:
• Tiểu thang: Thục địa 24g, các vị chủ 9–12g, quế – phụ tử 3g.
• Đại thang: Thục địa 32–40g, các vị chủ 12–16g, quế – phụ tử 6g.
Hi vọng đáp ứng được câu hỏi của bạn.
Chúc bạn mạnh khoẻ và ứng dụng tốt bài thuốc!

binh-luan

Đỗ kỉnh oanh

Phụ tử là loại thuốc nóng dử lắm phải ông thưa thầy , thuốc này kỵ thuốc nào và trị bệnh gì

binh-luan

Đỗ kỉnh Oanh

Xin hỏi bài bát vị căn bản tiểu thang là cân lượng bao nhiêu

Đại thang là cân lương bao nhiêu
Xin vui lòng giải đáp