LUVIKIDY - BÀI THUỐC CỔ PHƯƠNG
Các danh y thời kỳ cổ đại rất coi trọng bệnh tật của trẻ em, ở thời Chiến quốc, danh y Biển Thước đã là thầy thuốc nhi khoa. Đến đời nhà Đường, danh y Tôn Tư Mạc đề xướng thành lập nhi khoa riêng. Đến đời nhà Tống xuất hiện một danh y chuyên về nhi khoa, Tiền Ất tại Quân Châu (nay là tỉnh Sơn Đông), SN 1023.
Danh y Tiền Ất chuyên chữa bệnh cho trẻ em, ông cho rằng cơ thể trẻ em có đặc điểm riêng, vì vậy khi khám bệnh phải dựa vào đặc điểm đó để chữa trị một cách linh hoạt, không nên rập khuôn theo các bài thuốc cổ, khi kê đơn cần áp dụng nguyên tắc mềm mỏng.
Một hôm, có một thầy thuốc cầm đơn thuốc mà Tiền Ất kê ra, hỏi: “Tiền Thái y, đối chiếu với thang thuốc mà Trương Trọng Cảnh viết trong “Kim quỹ yếu lược”, thang thuốc này của ngài hình như kê thiếu hai vị, có phải ngài quên kê?”. Tiền Ất cầm đơn thuốc xem lại một lần, rồi giải thích: “Thang thuốc Trương Trọng Cảnh kê là dùng cho người lớn. Trẻ em dương khí đầy đủ nếu cho uống Nhục quế và Phụ tử có thể bị chảy máu cam, cho nên tôi bỏ hai vị thuốc nóng này đi”.
Bài thuốc Lục vị địa hoàng hoàn cho trẻ em ra đời từ đó, được người đời phong là thánh dược nhi khoa, điều trị chứng "thuần dương vô âm" ở trẻ, thích hợp dùng với các triệu chứng: táo bón, nhiều mồ hôi trộm, nghiến răng, người gầy da nóng, thích ăn đồ lạnh, môi đỏ lưỡi đỏ, hay quấy khóc hờn dỗi, thường xuyên viêm nhiễm,.. Bài thuốc dùng được lâu dài, giúp trẻ em phát triển lành mạnh, cân bằng thể trạng, cải thiện hấp thu tiêu hoá.
TÁC DỤNG
- Điều trị táo bón biếng ăn, ra mồ hôi trộm
- Tăng thể trạng, tăng cường miễn dịch ăn ngon, ngủ ngon
- Phòng viêm nhiễm đường hô hấp hay tái phát
- Làm giảm các chứng nhiệt: Môi đỏ, lưỡi đỏ...
THÀNH PHẦN
- Thục địa : Thục địa là vị thuốc có vị ngọt, mùi thơm và tính hơi ôn, có công năng dưỡng huyết, tư âm, sinh tân chỉ khát. Trong Đông Y Thục Địa thường được dùng để trị các chứng âm huyết hư như đau lưng mỏi gối, cơ thể suy nhược, di tinh, di niệu, ù tai, điếc tai, đau đầu chóng mặt, thị lực suy giảm.
- Sơn thù du: Sơn thù du có tính mát, vị chua, hơi chát, quy vào kinh can, thận, có tác dụng bổ gan thận, cường dương, ích tinh, thông khiếu. Trong đông y, Sơn thù du được dùng trong chữa phong thấp, tê thấp, đau lưng mỏi gốc, tai ù, thận suy, tiểu nhiều lần; bổ gan thận, chữa di tinh, tiểu ra tinh dịch, rối loạn kinh nguyệt, ra mồ hôi trộm.
- Hoài sơn: Hoài sơn có tính bình, vị ngọt, quy vào kinh , có tác dụng bổ tỳ vị, ích tâm phế, bổ thận, chỉ tả lỵ, hạ nhiệt. Trong đông y, Hoài sơn được dùng làm thuốc bổ ngũ tạng, mạnh gân xương, dùng để trị sức khỏe suy nhược, bệnh đường ruột, tiêu chảy, di tinh, mộng tinh, hoạt tinh, suy thận, mỏi lưng, tiểu nhiều, chóng mặt, hoa mắt, mồ hôi trộm.
- Trạch tả: Lợi thấp, tiết trọc khí ở thận, giảm bớt tính nê trệ và nhiệt của thục địa.
- Phục linh: Phục linh có vị ngọt, nhạt, tính bình, có tác dụng lợi thuỷ thẩm thấp kiện tỳ, định tâm. Trong Đông y, Phục Linh được dùng làm thuốc bổ, thuốc lợi tiểu, chữa thuỷ thũng, đầy trướng, ỉa chảy, tỳ hư ít ăn. Ngoài ra, còn dùng làm thuốc trấn tĩnh, an thần phách, chữa các chứng sợ lửa, mất ngủ, di tinh.
- Đơn bì: Thanh tiết hư nhiệt, làm giảm bớt tính ôn sáp của sơn thù du.
Phòng khám chuyên khoa Y học cổ truyền Bảo Đại Đường
Chuyên điều trị Tai mũi họng, cơ xương khớp, vô sinh hiếm muộn, bệnh nhi khoa và các bệnh mãn tính
Địa chỉ: 148, ngõ 91, Trần Quang Diệu, Đống Đa, Hà Nội
Hotline: 084.22.11.348 - 084.23.11.348
Trạm trung chuyển: Long Biên, Thái Nguyên, Nghệ An